Theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự (tội Đánh bạc), người nào đánh
bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật
có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu
đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5 triệu
đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ
3 tháng đến 3 năm.
Các trường hợp đánh bạc trái phép dưới mức quy định nói trên thì bị xử phạt hành chính.
Đánh bạc trái phép được hiểu là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới
bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà
không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định
trong giấy phép được cấp.
Ngoài ra, thuật ngữ đánh bạc “trái phép” còn có thể được dùng để phân
biệt với các hoạt động tương tự như đánh bạc nhưng có phép (hợp pháp)
như các hoạt động vui chơi có thưởng (thường gọi là casino). Theo Quyết
định số 32/2003/QĐ-TTg ngày 27/02/2003 của Thủ tướng Chính phủ về Quy
chế hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng (casino) thì doanh
nghiệp kinh doanh lĩnh vực này có thể là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên người chơi thì chỉ có thể
là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các đối
tượng khác bị cấm tham gia dưới mọi hình thức.
Tất cả các hành vi chơi số đề, cá độ bóng đá, tá lả, tổ tôm, chắn, 3
cây, xóc đĩa… nếu được thua bằng tiền hoặc hiện vật thì đều bị coi là
đánh bạc. Nếu được thua bằng tiền từ 2 triệu đồng trở lên thì phạm tội
đánh bạc. Ví dụ, một người chơi một số đề với số tiền 70.000 đồng nhưng
trúng thưởng và được nhận 2.100.000 đồng thì đã phạm tội Đánh bạc và có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, một người chơi một số đề
với số tiền dưới 2.000.000 đồng (có thể tới 1.999.000 đồng) nhưng không
trúng thì cũng không phạm tội Đánh bạc, tuy nhiên có thể bị xử phạt
hành chính về hành vi đánh bạc trái phép.
Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác
định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là
tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc. Nói cách
khác, khi xử lý các vụ việc đánh bạc thì những người cùng tham gia đánh
bạc với nhau bị xử lý với vai trò đồng phạm và phải chịu trách nhiệm
hình sự về tổng số tiền thu được trên chiếu bạc. Việc người này, người
kia chơi nhiều, chơi ít không liên quan đến việc định tội mà chỉ có thể
là tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình. Ví dụ khi công
an bắt một vụ đánh bạc thu được trên chiếu bạc là 10 triệu đồng thì dù
trong chiếu bạc có người chỉ đặt cược một lần duy nhất trị giá 100.000
đồng (không phân hiệt lần đặt cược này thua hay thắng bao nhiêu) thì anh
ta vẫn bị truy tố về tội đánh bạc với mức của đồng phạm là 10 triệu
đồng.
Việc xác định tiền mang theo người của người chơi bạc dù chưa sử dụng có là tang vật hay không, pháp luật quy định như sau:
Theo Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao ngày 22/10/2010 thì “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:
a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.
Với hướng dẫn này thì tiền mang theo của người chơi bạc kể cả chưa sử
dụng nhưng các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có đủ căn cứ xác định
sẽ được dùng để đánh bạc thì vẫn được coi là tang vật vụ án và bị tịch
thu, sung quỹ nhà nước. Để xác định tiền mang theo người sẽ được dùng để
đánh bạc hay không các cơ quan tố tụng thường căn cứ lời khai của các
nhân chứng, của các đồng phạm và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ
sơ. Lời khai của chủ tài sản chỉ là một trong các tình tiết để cơ quan
tố tụng xem xét, đánh giá.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội